Thế là tôi khăn gói chuẩn
bị về Đồng Nai. Cùng về với tôi là hai người bạn cùng học Huỳnh Tấn Bửu, người
quê Cù lao Phố và Nguyễn Thị Hồng, người Biên Hòa.
Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng bấy giờ trực thuộc Ban Thường
vụ Tỉnh ủy Đồng Nai, được bố trí hai phòng làm việc liền nhau ở khu tập thể Ban
Tuyên giáo (62 Quốc lộ 1), một căn là nhà ở gia đình chú Phan Ngọc Danh, cán bộ
của Ban (sau đề bạt Phó ban), một căn vừa là văn phòng Ban, một căn buồng nhỏ bố
trí cho tôi ở khi công tác.
Chú Lâm Hiếu Trung nguyên là một thanh niên sinh ra trong
gia đình nghèo thành thị, thuở nhỏ học ở Trường Nguyễn Du, Biên Hòa, một ngôi
trường thành lập sớm của quận Châu Thành, tỉnh Biên Hòa, nhiều thế hệ học sinh ở
đây sau này trưởng thành trở thành những nhà giáo, nhà văn hóa và tham gia
kháng chiến. Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ, như bao người thanh niên yêu nước
bấy giờ, chú Lâm Hiếu Trung cùng anh trai tham gia vào Thanh niên Tiền Phong,
sau là Đoàn Thanh niên Cứu quốc ở địa phương.
Khi
thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, tỉnh lỵ Biên Hòa bị chiếm đóng (tháng
10/1945), ông đã tham gia Vệ quốc đoàn quận Châu Thành, Biên Hòa để kháng chiến
cứu nước. Cuối năm 1947, ông được quyết định về làm thư ký văn phòng quận đội bộ
quận Châu Thành. Với sự hăng hái nhiệt tình của tuổi trẻ, ông trưởng thành và được
bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1949 (một chi tiết là ông phải khai
sinh năm 1931 thay vì 1932 để đủ 18 tuổi khi vào Đảng theo quy định Điều lệ Đảng
bấy giờ).
Từ
năm 1949, theo sự điều động của Tỉnh đội Biên Hòa, ông về nhận nhiệm vụ ở huyện
đội Vĩnh Cửu
giữ chức vụ Phó ban, sau đó là Trưởng ban quân báo - địch vận của huyện. Ông đã
cùng với đơn vị và đồng đội vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, đặc biệt trong
năm Nhâm Thìn bão lụt tháng 10/1952 và trận càn quét của thực dân Pháp tháng 1/1953,
chiến đấu xây dựng bảo vệ Chiến khu Đ, Bình Đa, chiến khu Hố Cạn (Tân Phong).
Từ
1953 - 1954, ông được điều động về công tác chính trị ở Tỉnh đội Thủ Biên, sau
đó về Đại đội Lam Sơn, huyện Vĩnh Cửu cho đến ngày tập kết ra miền Bắc tháng 7/1954.
Miền
Bắc xã hội chủ nghĩa đã cưu mang, giáo dục, đào tạo để ông trở thành người cán
bộ kinh qua nhiều chức vụ ở nhiều ngành, lĩnh vực và địa phương. Năm 1966, ông về công tác
tại Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (thành lập năm 1962 do đồng chí Trường
Chinh làm Trưởng ban), Bí thư Chi bộ Vụ miền Nam nhiều khóa. Thời gian công tác
ở Vụ miền Nam, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, ngoài kiến thức, lý luận được đào tạo,
ông có điều kiện nghiên cứu tài liệu, dự hội nghị, hội thảo, tiếp xúc, làm việc
với các đồng chí lão thành cách mạng cả ở Trung ương và địa phương tỉnh Biên
Hòa trong kháng chiến, do vậy tích lũy được nhiều
vốn sống trong nghiên cứu lịch sử Đảng.
Sau
khi ổn định tạm nơi ăn, chốn ở, để tạo điều kiện cho chúng tôi nghiên cứu, trước
hết ông mở một “lớp tập huấn” ngay tại văn phòng, người đứng lớp là Lâm Hiếu
Trung và người được tập huấn gồm 3 cán bộ mới: Toại, Bửu và Hồng. Nội dung tập
huấn là sơ lược lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và phương pháp sưu tầm, khai thác
tư liệu lịch sử, cách viết lịch sử địa phương… Lịch sử Đảng chung thì chúng tôi
đã được học ở trường, nhưng “lớp tập huấn” giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về lịch
sử Đảng của địa phương Biên Hòa, Bà Rịa.
Năm
1978, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng được dời về địa điểm mới, căn nhà lầu nằm giữa
hai cây cầu Ghành và Rạch Cát do Ban tuyển sinh đại học tỉnh chuyển giao (vốn
là nhà đại tá Kim của chế độ Sài Gòn trước đây). Đồng chí Lâm Hiếu Trung được đề
bạt làm Phó ban. Với sự chủ trì của đồng chí Bảy Trung, nhiều cuộc tọa đàm về
thời kỳ lịch sử 1930 đến Cách mạng tháng Tám 1945, thời kỳ kháng chiến chống
Pháp ở Biên Hòa, Bà Rịa (1945 - 1954) được tổ chức. Được tiếp
xúc với các đồng chí cách mạng lão thành, chúng tôi không chỉ thu thập tư liệu
lịch sử địa phương, hiểu tình hình diễn biến phong trào cách mạng của tỉnh
trong những thời đoạn gian khổ, hào hùng và lẫn bi thương của địa phương, mà
còn học được cả về đạo đức cách mạng, tính nhân văn trong ứng xử với văn hóa và
lịch sử cách mạng. Đồng chí còn tổ chức cho chúng tôi xâm nhập thực tế các huyện,
xã để hiểu cụ thể hơn về con người, sự kiện lịch sử địa phương. Sự nhiệt tình,
thái độ trách nhiệm, phương pháp khoa học mà đồng chí truyền đạt cho chúng tôi
là những bước cơ bản nhất trong công việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa sau này ở
địa phương.
Tại
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ III năm 1983 (vòng II), ông được bầu vào
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và được Tỉnh ủy phân công về Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy,
giữ chức vụ phó Trưởng ban thường trực. Vào thời điểm này Ban Tuyên huấn, Ban
Khoa giáo và Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng sáp nhập thành Ban Tuyên giáo. Tuy
không còn trực tiếp lãnh đạo, nhưng ông vẫn luôn quan tâm và tạo điều kiện cho
chúng tôi và đồng chí Phan Ngọc Danh (Phó Ban Tuyên giáo phụ trách lịch sử Đảng)
để nghiên cứu lịch sử địa phương. Một số đầu sách lịch sử Đảng bộ địa phương được
xuất bản trong giai đoạn này như Lịch sử Phước Long Hội, Phước Hải, huyện Long
Đất…
Tại
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IV (1986), ông tiếp tục được được bầu vào
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, được Tỉnh ủy bố trí làm Trưởng Ty văn hóa thông tin
tỉnh Đồng Nai. Ông cùng với Ban lãnh đạo Ty văn hóa thông tin tham mưu cho Đảng
bộ, chính quyền lãnh đạo xây dựng và phát triển nhiều thiết chế văn hóa, tăng
cường trang thiết bị cho sự nghiệp phát triển văn hóa ở cơ sở. Đặc biệt, ông đã
vận động nhiều Sở, ban ngành, công ty, xí nghiệp phát triển mạnh phong trào văn
hóa - văn nghệ quần chúng như hội diễn nghệ thuật Nông - Công - Binh tổ chức
hàng năm, góp phần đào tạo nhiều diễn viên, nghệ sĩ hạt nhân nòng cốt của tỉnh,
nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc. Ông tham mưu cho UBND tỉnh ra quyết định và đề nghị Bộ Văn
hóa thông tin công nhận nhiều di tích lịch sử, văn hóa ở địa phương (như Bửu
Hưng Tự, Đài chiến sĩ trận vong, nhà Xanh, nhà hội Bình Trước…).
Tại
kỳ họp của HĐND tỉnh khoá IV, nhiệm kỳ 1989 - 1994, ông Lâm Hiếu Trung - Tỉnh ủy
viên, được bầu vào UBND tỉnh với chức danh Phó Chủ tịch UBND phụ trách công tác
văn xã. Ông thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa trong
thời kỳ nước ta đang trong tiến trình đổi mới. Qua đó, với những nỗ lực và quyết
tâm cao, ông tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh xây dựng, phát triển được nhiều
thiết chế văn hóa trong tỉnh, từng bước đưa sự nghiệp văn hóa - văn nghệ thành
mũi nhọn xung kích trên mặt trận tư tưởng, xây dựng và phát triển sự nghiệp văn
hóa theo hướng tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tại
Đại hội Đảng bộ lần thứ V, nhiệm kỳ 1990 - 1996, ông được bầu vào Tỉnh ủy và được
Ban Chấp hành Đảng bộ bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, được phân công giữ chức vụ
Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Ở cương vị này, ông đã tiếp tục xây dựng và phát
triển hệ thống Ban Tuyên giáo và đội ngũ cán bộ, báo cáo viên cơ sở, củng cố đội
ngũ phóng viên, biên tập viên phát thanh - truyền hình, báo chí, xuất bản, góp
phần đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống và khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối
của Đảng và sự sáng tạo, tự chủ, độc lập của Đảng ta trong công cuộc đổi mới. Đồng
thời, ông tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo xây dựng nhiều công trình
kinh tế, hạ tầng tạo điều kiện thu hút nhiều nguồn lực đầu tư để hình thành các
khu công nghiệp, giải quyết việc làm cho nhiều lao động, góp phần phát triển
kinh tế địa phương; tham mưu và chỉ đạo xây dựng nhiều công trình văn hóa như Bảo
tàng Đồng Nai, Thư viện Đồng Nai...
Chúng
tôi lại được làm việc với chú Bảy Trung, nhiều đầu sách lịch sử Đảng bộ địa
phương đã được nghiên cứu biên soạn và xuất bản trong giai đoạn này như: Biên
Hòa, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Long Thành, Tân Phú; lịch sử ngành như: Đồng Nai 30
năm chiến tranh, Cuộc nổi dậy phá khám
Tân Hiệp, Trận đầu diệt Mỹ (Nhà Xanh BIF)…
Năm
1996, ông nghỉ hưu theo chế độ, nhưng vẫn tham gia nhiều hoạt động xã hội, hoạt
động khoa học trong tỉnh. Năm 1996, ông tham mưu tổ chức đại hội thành lập và
làm Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Đồng Nai và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Đồng Nai. Ông là Ủy viên Trung ương Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và Ủy
viên Hội đồng Trung ương Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam nhiều
khóa liền.
Tôi
nhớ để chuẩn bị kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng
Nai, Tỉnh ủy chủ trương nghiên cứu phỏng dựng lại Văn miếu Trấn Biên, một thiết
chế lịch sử văn hóa truyền thống hình thành sớm ở vùng đất mới Nam bộ. Tôi được
tham gia cùng đồng chí Lâm Hiếu Trung, giáo sư Huỳnh Minh Đức, Đỗ Bá Nghiệp, Huỳnh
Văn Tới, Đỗ Thiện Tâm - kiến trúc sư… cùng cán bộ Phòng Văn hóa thông tin TP.
Biên Hòa đi khảo sát nghiên cứu chọn địa điểm, nghiên cứu kiến trúc một số Văn
miếu hiện tồn như Văn miếu Quốc tử giám (TP. Hà Nội), Văn miếu Vĩnh Long, Văn
miếu Huế… để trên cơ sở đó tham mưu tổ chức thi thiết kế Văn miếu Trấn Biên
trên nền cũ như sử sách xưa ghi lại. Tư tưởng chỉ đạo của đồng chí Lâm Hiếu
Trung, Văn miếu Trấn Biên tuy là một thiết chế văn hóa - lịch sử truyền thống,
nhưng nội dung và mục đích chính là góp phần xây dựng một nền văn hóa mới gắn với
truyền thống và sự nghiệp văn hóa, giáo dục, khoa học tiến bộ phục vụ công cuộc
xây dựng đất nước quả là chính xác.
Vì
sự nghiệp khoa học của tỉnh, hơn 10 năm nỗ lực, ông cùng với tập thể phát triển
Liên hiệp Hội Đồng Nai từ vài tổ chức thành viên lên đến 23 hội khoa học, hội
nghề nghiệp, tập hợp trên 3.000 trí thức vào tổ chức, góp phần phát huy sức mạnh
của đội ngũ trí thức khoa học công nghệ trong tỉnh vì sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa tỉnh nhà. Ông có nhiều đóng góp trong việc phỏng dựng lại công
trình Văn miếu Trấn Biên nhân kỷ niệm Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm (1698 - 1998);
cùng với Ban Chỉ đạo và biên soạn của tỉnh hoàn thành các công trình nghiên cứu
khoa học chào mừng có giá trị lịch sử như “Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình
thành và phát triển”, trong đó đánh giá đúng vai trò, công lao của các chúa
Nguyễn trong việc mở mang vùng đất mới Nam bộ; “Địa chí Đồng Nai”, một công
trình khoa học “đồ sộ” của tỉnh với những số liệu, nhận định đánh giá có giá trị
lâu dài; cùng với Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử miền Đông hoàn thành công
trình “Lịch sử Đảng bộ miền Đông lãnh đạo hai cuộc kháng chiến” và nhiều công
trình nghiên cứu về lịch sử, văn hoá khác trong tỉnh.
Ông
là thành viên Hội đồng nghệ thuật và Hội đồng khoa học công nghệ của tỉnh, tham
gia tư vấn, phản biện nhiều đề án, dự án dân sinh của tỉnh, góp phần xây dựng
nhiều tượng đài có ý nghĩa lịch sử - văn hóa như Tượng đài chiến thắng sân bay
Biên Hòa, Tượng đài chiến thắng La Ngà, Tượng đài chiến thắng Xuân Lộc…
Ông
rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ, vì thế ông tham gia
là thành viên sáng lập Trường Đại học Lạc Hồng đầu tiên của Đồng Nai, là Phó Chủ
tịch Hội đồng quản trị và Bí thư Chi bộ, Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Nhà trường.
Tôi
nhớ mãi chú Bảy Trung - người rất thẳng thắn góp ý chân thành trong khoa học
cũng như trong cuộc sống và lao động. Những ý kiến phát biểu của chú ở Hội Khoa
học lịch sử Việt Nam, Liên hiệp Hội Việt Nam (tôi đi dự cùng với chú) về trí thức,
khoa học và công nghệ; những bài phát biểu về xây dựng văn hóa với đầy ắp những
tâm huyết ở địa phương luôn đặt ra nhiều băn khoăn, trăn trở và trách nhiệm của
người làm quản lý cũng như những người nghiên cứu lịch sử, văn hóa ở Đồng Nai.
ThS. Trần Quang Toại
Phó
Chủ tịch - Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội KH&KT Đồng Nai