Một tấm gương tự học vươn lên trong
khoa học
Nói
đến Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa tức nói đến một trí thức lớn, một nhân cách
lớn, suốt cuộc đời cống hiến tài năng cho sự nghiệp khoa học, phụng sự Tổ quốc;
một tấm gương sáng về ý chí tự lực tự cường và sáng tạo không ngừng.
Tên thật của ông là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13/9/1913 tại xã Chánh Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Gia đình khó khăn, cha mất sớm, nhưng được mẹ và chị
tảo tần nuôi nấng, năm 1933 Phạm Quang Lễ đã thi đỗ đầu
cả bằng tú tài Việt và tú tài Pháp. Năm 1935, ông sang Pháp đi du học và tốt nghiệp kỹ sư, cử nhân
toán học tại các trường: Bách khoa Paris (École Polytechnique), Đại học Mỏ (École nationale supérieure des mines de
Paris), Đại học Điện, Đại học Sorbonne, Đại học Cầu đường Paris. Sau đó ông ở lại Pháp làm
việc tại Trường Quốc gia Hàng không và Vũ trụ (École nationale supérieure de
l'aéronautique et de l'espace). Năm 1942, ông sang Đức làm
việc trong xưởng chế tạo máy bay và Viện nghiên cứu vũ khí. Thư viện là trường
học chính của ông, nơi lưu giữ tri thức, kiến thức khoa học kỹ thuật mà ông cần
học, nghiên cứu, đặc biệt âm thầm nghiên cứu về kỹ thuật chế tạo vũ khí.
Cuộc gặp gỡ định mệnh
Bước
ngoặt trong cuộc đời khi ngày 22/6/1946, Trần Đại Nghĩa gặp được Chủ tịch Hồ
Chí Minh ở Pháp.
Cùng với hai trí thức khoa học Võ Quý Huân (kỹ sư luyện kim) và Trần Hữu Tước
(bác sĩ) ông đã đến gặp Chủ tịch nước và đi cùng Người nhiều nơi trong nước
Pháp.
Một
lần Hồ Chủ tịch hỏi Phạm Quang Lễ: “Nguyện vọng của chú lúc này là gì?”. Ông trả
lời ngay điều đã ôm ấp từ buổi đầu du học: “Dạ thưa, nguyện vọng cao nhất là được
trở về Tổ quốc cống hiến hết năng lực và tinh thần”. Nghe nguyện vọng của ông về nước để
chiến đấu cho độc lập dân tộc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại hỏi: “Đời sống ở trong nước còn đang
rất khó khăn, chú về nước có chịu nổi không?” Phạm Quang Lễ trả lời: “Thưa, tôi
chịu nổi”. “Ở trong nước không có kỹ sư, công nhân về vũ khí, máy móc thiếu, liệu
chú có làm việc được không?” Phạm Quang Lễ trả lời: “Thưa, tôi tin là làm được
vì tôi đã chuẩn bị mười một năm ở bên Pháp” (với tâm nguyện chế tạo vũ khí ông
đã âm thầm tự nghiên cứu kỹ thuật chế tạo vũ khí khi còn ở Pháp).
Kính phục lý tưởng giải phóng dân tộc, nhân cách gần gũi,
thân mật của Hồ Chí Minh, Phạm Quang Lễ đã từ bỏ cuộc sống cao sang, bổng lộc
nơi xứ người, trở về Việt Nam với hoài bão cùng nhân dân kháng chiến giành độc
lập. Sau này, khi
được hỏi tại sao ông lại tình nguyện rời bỏ cuộc sống đầy đủ tại Pháp để về nước
tham gia kháng chiến, chấp nhận cuộc sống khó khăn gian khổ, ông từng nói: “Bạn
bè của tôi ở lại bên Pháp, họ đều sung sướng, đầy đủ hơn tôi rất nhiều. Nhưng về
khía cạnh phụng sự Tổ quốc, họ chẳng có gì cả”.
Giáo sư Trần
Đại Nghĩa (thứ ba từ phải sang) xem sản phẩm do Quân giới sản xuất thời chống
Mỹ
(ảnh tư liệu)
Người chế tạo vũ khí cho quân đội kháng chiến chống thực dân
Pháp
Từ Pháp qua
nhiều chặng đường, về đến Hà Nội chỉ được
nghỉ có bảy ngày, kỹ sư Phạm Quang Lễ phải lên ngay xưởng quân giới Giang Tiên
ở Thái Nguyên nghiên cứu chế tạo súng chống xe tăng, dựa theo mẫu súng bazoka
của Mỹ với hai viên đạn dự trữ do Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu cung
cấp. Công việc mới bắt đầu được ít ngày thì ông nhận được điện của Thứ trưởng
Bộ Quốc phòng gọi về Hà Nội gấp để gặp Hồ Chủ tịch.
Ngày 5/12/1946, trước ngày toàn quốc kháng chiến, ông
đến Bắc Bộ Phủ, nhận trọng trách do Chủ tịch nước giao cho. Bác nói: “Kháng
chiến sắp đến nơi rồi. Hôm nay, Bác quyết định giao cho chú nhiệm vụ làm Cục
trưởng Cục Quân giới.
Chú sẽ chăm lo vũ khí cho quân đội. Đây là việc đại nghĩa. Vì thế, từ nay Bác
đổi tên cho chú là Trần Đại Nghĩa...”.
Chưa phải đảng viên Cộng sản, lại xuất thân nhà trí
thức khoa học ở châu Âu về, nhưng Chủ tịch nước vẫn trao cho ông chức vụ và
trách nhiệm quan trọng trong quân đội, điều này cho thấy sự tôn trọng của Chủ
tịch nước với trí thức và tài dùng người của Bác. Đối với Trần Đại Nghĩa bằng
tấm lòng yêu nước nung nấu và với ý thức tự lực, tự cường trong điều kiện nước
nhà bước vào cuộc chiến tranh không cân sức với thực dân Pháp, nhưng ông sẵn
sàng nhận nhiệm vụ và tin rằng với đường lối kháng chiến toàn dân, với sự tin
tưởng của lãnh đạo và quân đội mình có đủ điều kiện hoàn thành nhiệm vụ.
Từ cuối năm 1946, thực dân Pháp triển khai hàng loạt biện
pháp nhằm đưa quân đánh chiếm miền Bắc, buộc Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hòa đầu hàng. Trước hành động ngang ngược của thực dân Pháp, ngày 18/12/1946,
tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết nghị phát động
cuộc kháng chiến trong cả nước. Và chiều 19/12/1946, Tổng Tư lệnh Quân đội hạ
lệnh cho toàn thể Vệ quốc quân và dân quân tự vệ Bắc - Trung - Nam chiến đấu
chống quân xâm lược Pháp. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Trên chiến khu ở Thái Nguyên, Trần
Đại Nghĩa cùng binh công xưởng bắt tay tiếp tục nghiên cứu chế tạo vũ khí. Cuộc
chiến càng mở rộng nhu cầu cung cấp vũ khí cho chiến trường ngày càng cấp
thiết, đặc biệt những loại vũ khi có thể chống được xe tăng thế mạnh của quân
đội Pháp. Những năm miệt mài nghiên cứu, sản xuất của ông rồi cũng cho kết quả
tốt đẹp. Ngày 3/3/1947 đã trở thành một mốc son của ngành Quân giới Việt Nam
trong việc chế tạo khí tài, súng đạn. Đó là ngày chiếc bazoka do Cục trưởng
Trần Đại Nghĩa chế tạo, sau thử nghiệm, lần đầu tiên ra trận và đánh thắng,
tiêu diệt ngay 2 xe tăng của thực dân sau hai phát đạn đầu tiên. Bazoka do ông
chế tạo có tầm bắn xa tới 600m, mức xuyên đạt 75cm trên tường gạch, tương đương
với sức nổ xuyên phá của đạn bazoka do Mỹ chế tạo trong chiến tranh thế giới
thứ hai. Trong chiến dịch Thu Đông năm 1947, bazoka còn bắn chìm cả tàu chiến
Pháp trên sông Lô. Bazoca trở thành thứ vũ khí làm quân viễn chinh Pháp phải
khiếp sợ.
Sau thắng lợi, ông được phong hàm
thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam (1948) và quyết định nghiên cứu chế tạo súng không giật SKZ - một loại súng
trọng lượng nhẹ có thể vận chuyển, mang vác dễ dàng, nhưng lại có sức công phá
ngang đại bác và bom bay. Kiểu đầu tiên trong hệ thống súng không giật là SKZ
60cm, đã được sử dụng trong các chiến dịch năm 1949 - 1950. Súng không giật SKZ
đã khiến quân địch hoảng sợ, buộc chúng phải xây dựng lại toàn bộ hệ thống công
sự, đồn bốt. Trong cuốn sách “Chiến tranh Đông Dương”, Lucien Bodard đã viết:
“Chỉ cần vài quả là đủ tiêu diệt tháp canh của chúng tôi. Dưới tác dụng của các
quả đạn lõm, tất cả đều sụp đổ”.
Sau súng không giật SKZ, Trần Đại Nghĩa tiếp tục
nghiên cứu và chế tạo thành công loại tên lửa nặng 30kg, có thể đánh phá các
mục tiêu cách xa 4km. Tất cả những nghiên cứu đó của ông đã góp phần làm nên
thắng lợi quan trọng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, đồng thời khẳng định trí tuệ Việt Nam trong nền khoa học thế
giới, một kỳ tích phi thường của quân và dân ta trong điều kiện khó khăn thiếu
thốn lúc bấy giờ.
Tại
Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc đầu tiên năm 1952, với việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong quân đội,
ông đã được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng Lao động.
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội
thảo khoa học “Trần Đại Nghĩa - Cuộc đời và sự nghiệp”
Trở
về đời thường tiếp tục cống hiến
Sau
khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Trần Đại Nghĩa được điều động sang lĩnh
vực dân sự, giữ chức: Thứ trưởng Bộ Công thương, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng, Ủy viên Ủy ban Khoa
học Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ
thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt
Nam (1975), Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (nhiệm
kỳ 1983 - 1988), đại biểu Quốc hội khoá II, III.
Ngày đất nước hoàn toàn không còn bóng quân xâm lược
vào mùa xuân 1975, Trần Đại Nghĩa có ghi vào cuốn sổ tay của mình: “Ngày 30/4/1975, nhiệm vụ của tôi đã hoàn
thành, vì hoài bão của tôi hồi nhỏ, sứ mạng của tôi rất đơn giản là tham gia về
mặt khoa học, kỹ thuật vũ khí trong cuộc đấu tranh vũ trang cách mạng để giải
phóng đất nước và nay đất nước đã được giải phóng, tôi không muốn gì hơn nữa,
vì một đời người không thể làm hơn”. Tấm lòng nhiệt huyết và sự
cống hiến của một trí thức khoa học thật đáng trân trọng.
Những năm cuối đời, ông cùng gia đình trở về quê hương
miền Nam, sinh sống tại quận Phú Nhuận,
TP. Hồ Chí Minh. Ông mất vào 16 giờ 20 phút ngày 9/8/1997, hưởng thọ 83 tuổi.
Bài học mà Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại
Nghĩa để lại cho đội ngũ trí thức và các thế hệ trẻ rất chân thành như chính
cuộc đời ông đã trải qua: “Tuổi trẻ thật là quý giá. Khi đã định hướng là khi
ta không đánh mất mình trong dòng đời trôi nổi. Tuổi trẻ đủ sức mạnh giúp ta
đứng dậy mỗi khi bị sức mạnh phũ phàng đánh ngã. Tuổi trẻ đủ dũng khí vượt lên
trên con đường lẻ loi, âm thầm để đi tới tương lai. Tuổi trẻ khát khao tình yêu
và cuộc sống, song khi đã có chí hướng, tuổi trẻ lại có thể dồn toàn bộ khát
vọng cho tình yêu lớn. Bây giờ tôi muốn nói lại với các con tôi và tất cả các
bạn trẻ như vậy. Đó là kinh nghiệm sống của đời tôi”.
Để tôn vinh “đại trí thức” Trần Đại Nghĩa, ngày 16/11/2015,
Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam ra Quyết định
số 1883/QĐ-VHL về việc ban hành Quy chế Giải thưởng Trần Đại Nghĩa nhằm tuyên dương tác giả của các công trình
nghiên cứu có giá trị khoa học xuất sắc và đã trực tiếp tổ chức triển khai ứng
dụng để đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc
phòng của đất nước.